Cách Viết Văn Tế, Văn Cúng Giỗ Tổ Tiên Chuẩn Văn Hán – Nôm Truyền Thống

Văn chữ Hán hầu hết mở đầu bằng chữ duy đặt trước niên hiệu, năm tháng rồi đến ngày. Duy chỉ đặt trước niên hiệu văn cúng tế lễ, duy đứng riêng không có nghĩa.

Tiếp đến là địa điểm làm lễ tỉnh huyện trước, xã thôn sau. Con cháu cúng tế lễ Tổ Tiên ; Cúng giỗ ông bà cha mẹ khi thời đồng cư thì không cần địa danh.
Tiếp đến người chủ tế tự xưng danh là cô tử (nếu mồ côi cha) ai tử (nếu mồ côi mẹ) và cô ai tử ( nếu mồ côi cả cha lẫn mẹ).
Trưởng nam – Con trai Trưởng trong phần lễ thường đứng chủ lễ không phải chú hai chú ba, dẫu rằng cháu còn nhỏ tuổi chưa biết cúng lễ cũng phải nhân danh cháu mà khấn .
Tằng Tôn (chắt Cố – hay Cụ) Huyền Tôn ( chiu Kỵ – hay Can), Viễn Tôn hay Hậu Duệ Tôn (cháu xa đời tự xưng với Tổ Tiên), Trưởng Tộc hay Thị Trưởng (trong lễ Tổ) ; Tín Chủ (trong lễ gia thần) ; Tang Chủ (lễ gia thần trong phần tang lễ). Nếu mẹ người chủ lễ còn sống thì đọc thêm câu “cung thừa chư thúc mệnh”, nếu chủ lễ là người cao tuổi nhất trong gia đình thì bỏ đoạn đó đọc tiếp “hiệp dữ bào đệ tị muội nội ngoại tử tôn hôn tế” (con cháu dâu rễ).
Tư nhân (hoặc kim dị, hoặc tư thích…) chi tiết hoặc (húy nhật) ; nay nhân ngày lễ, tết …(xem bảng ghi ngày lễ ngày tế bằng âm Hán hoặc Nôm điền vào ví dụ: 26/02 âl thì ghi : Nhị ngoạt ,nhị thập lục nhật ; 06/01 âl thì ghi : Chính ngoạt ,sơ lục nhật) hoặc ngày giỗ của ai thì ghi trước chữ “húy nhật”.

Con cháu,nội ngoại toàn tộc hoặc toàn gia kính cẩn sắm sanh lễ vật tiến lễ bàn soạn : “Cẩn dị … chi nghi” cung trần phi lễ (bạc lễ): Hương đăng (hương đèn nến), trà tỉu (chè rượu), phù lưu (trầu cau), phù tỉu (trầu rượu), thanh chước (nước trong), quả phẩm (hoa quả), kim ngân minh y (vàng mã), hàm âm (gà), trư nhục (thịt lợn), ngưu nhục (thịt bò), lý ngư (cá chép), tư thành (xôi), tinh quả (bát tái), diêu soạn thứ tự (cổ bàn các thứ), trai bàn (cổ chay).

Tiếp đến kính cáo, kính thỉnh, kính kỵ… (kính cáo, kính mời, kính mời thếm…)
a.Đối với văn cúng giỗ :
Tằng Tổ hoặc Hiển Tổ hoặc Hiển : ……………………………………….
Vị tiền (mộ tiền, tọa tiền…): trước linh vị (mộ linh tọa) của ……………………..( Tử Tôn xưng Tổ Tiên… Ông bà, Cha mẹ đã khuất, hoặc những vị có uy vong đặc biết xem ghi chú phía dưới)
Tiếp đó chữ “viết” (thưa rằng) hoặc cụm từ như : “Cung di” (trộm nghĩ rằng) ; “Cảm kiền”, “Cảm cung” hoặc Cảm chiêu cáo vu (kính cẩn thưa rằng ; “Cung văn” (trộm nghe)
Tiếp đến “kính cáo” đối với gia thần, “kính thỉnh” đối với gia tiên bậc cao, “kính kỵ” kính mời thêm đối với gia tiên bậc thấp hơn người được cúng giỗ hoặc (phụng vị thương vong).
b.Đối với văn tế lễ :
Đời thứ 7 chính bái xưng hô : Tiên Tổ đời thứ nhất ; Cao Cao Tổ đời thứ hai ; Cao Tổ đời thứ ba ; Tằng Tổ đời thứ tư ; Hiển Tổ đời thứ năm ; Hiển đời thứ sáu (chỉ mời mỗi cha mẹ chính bái) còn từ Cao Tổ cho đến Hiển Tổ là mời hết
Giã sử họ có 18 đời chẵng hạn và chính bái cũng là tộc trưởng đời thứ 18 thì ghi (Thập Bát thế tự ? – Thế Thất thế Tổ húy ?) Khách mời vẫn giữ nguyên còn từ đời thứ 6 trở xuống đưa vào Kính kỵ nội đường – Đây là văn lễ tế Tổ . Họ Nhánh , Họ Chi cũng làm tương tự (Nghĩa là lấy đời thứ 7 của mỗi họ xưng hô…)
Nếu cần thì tham khảo 3 bài văn tế lễ trong trang web : hotruongquang.com
-Họ Đại Tôn : Tiên Tổ tự là Gia Châu có 10 đời và 2 thế hệ tộc trưởng Thập thế tự Lưu chính bái – Thế Thất thế Tổ húy Hiểu ; khi đó Tiên Tổ là đời thứ nhất của Họ – Tiên Tổ húy Châu tự là Gia Châu Giã
-Họ Nhánh : Cao Cao Tổ húy Đường có 7 đời và 2 thế hệ tộc trưởng Thất thế tự Tân chính bái khi đó Tiên là đời thứ nhất của Nhánh – Cao Cao Tổ húy Đường
-Họ Chi : (chi Kỷ-Chi thứ sáu) Cao Tổ húy Miễn có 6 đời và 2 thế hệ tôc trưởng Lục thế tự Kỷ chính bái cho nên Tiên Tổ chưa phải là đời thứ nhất của Chi mà là – Cao Cao Tổ húy Nhàn
Qua 3 ví dụ trên đọc giả tự rút ra thế nào là 5 đời diêu giỗ ?
Kết thúc bài văn thường dùng chữ “Cảm cáo” hay “Thượng hưởng” hay “Phục di thượng hưởng”.

Ghi chú:
1> Theo phong tục cách lập linh vị (bài vị) tổng số chữ phải chia hết cho 4 hoặc chia 4 dư 3, kiêng dư 1 dư 2.( Qủi cốc linh thính : Đếm từ đầu đến chữ cuối cùng không trùng với chữ Quỉ hoặc chữ Cốc)
2>Cách xưng hô khi viết văn cúng tế : Cha mẹ là Hiển khảo,Hiển tỷ ; Ông bà là Hiển Tổ khảo,Hiển Tổ tỷ ; Cố-Cụ là Tằng Tổ khảo,Tằng Tổ tỷ ; Can-Kỵ là Cao Tổ khảo,Cao Tổ tỷ . Rồi tiếp đến là : Cao Cao Tổ khảo,Cao Cao Tổ tỷ ; và cuối cùng là Tiên Tổ khảo,Tiên Tổ tỷ . Xa hơn nữa là Viễn Tổ khảo,Viễn Tổ tỷ
3>Như vậy nếu ai đó có việc gì cần xin Tiên Tổ thì xem đời thứ 7 của mình thờ ở đâu thì về tại đó làm lễ . Chữ “Tổ”chỉ dùng từ hàng Ông trở lên cho người đã mất
4>Từ Cao Cao Tổ trở lên chỉ ghi vào trước đó và liệt vị…vĩ tiền chứ không được phép mời (xem 3 bài văn tế sẽ rõ)

Nguồn tin: Sưu tầm
Đánh giá cho post